Bệnh Lao Phổi
Bệnh lao phổi là tình trạng nhu mô phổi bị viêm nhiễm do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis. Mặc dù đã có vaccine nhưng miễn dịch với lao thường không mạnh và không bền nên người bị HIV, hệ miễn dịch kém… vẫn sẽ có nguy cơ nhiễm bệnh. Hiện nay, bệnh lao phổi đã có thể điều trị dứt điểm nếu dùng kháng sinh đúng cách, đủ liều và đủ thời gian.
Tổng quan
Bệnh lao phổi (Tuberculosis) là dạng lao phổ biến nhất. Như đã biết, lao là bệnh truyền nhiễm do vi trùng lao - Mycobacterium tuberculosis gây ra. Vi khuẩn lây nhiễm chủ yếu qua đường hô hấp từ người bệnh sang người lành. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn có thể tấn công vào tất cả các cơ quan như màng phổi, cột sống, màng não, ruột, hệ sinh dục - tiết niệu, hạch bạch huyết… Trong đó, chiếm 80 - 85% là lao phổi.
Bệnh lao phổi xảy ra do vi trùng lao xâm nhập, phát triển gây viêm nhiễm nhu mô phổi khiến cho chức năng hô hấp suy giảm. Khác với viêm phổi thông thường, lao phổi có biểu hiện mờ nhạt ở giai đoạn đầu nên dễ bị nhầm lẫn với các bệnh hô hấp thường gặp.
Vi trùng lao là loại vi khuẩn ưa khí, phát triển thuận lợi ở nhiệt độ 37 độ C, đặc biệt là trong môi trường giàu chất dinh dưỡng. Đây cũng là lý do phổi là cơ quan dễ bị vi khuẩn lao tấn công, kế tiếp là cột sống.
Bệnh lao nói chung và lao phổi có khả năng lây nhiễm cao. Nếu không được phát hiện sớm, vi khuẩn có thể lây lan dẫn đến bùng dịch trên diện rộng. Trước những ảnh hưởng nghiêm trọng của bệnh lao phổi, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo các quốc gia cần đẩy mạnh công tác phòng, chống lao. Để chung tay đẩy lùi bệnh dịch, điều đầu tiên cần làm là trang bị kiến thức và tìm hiểu tường tận về bệnh lao phổi.
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tác nhân gây bệnh lao phổi là trực khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis, thuộc họ Mycobacteriaceae. Ngoài ra còn 2 loại vi khuẩn gây lao khác là Mycobacterium bovis, Mycobacterium africanum nhưng ít gặp hơn. Đây là một loại trực khuẩn hình que, không di động, không sinh nha bào và sinh sản chậm. Vì vậy khi nhiễm vi trùng lao, cơ thể không có các biểu hiện rõ rệt như khi nhiễm các loại vi khuẩn khác.
Vi khuẩn lao chủ yếu lây từ người nhiễm bệnh (lao phổi, lao thanh quản) sang người khỏe mạnh, có thể lây trực tiếp hoặc gián tiếp. Hầu như không có trung gian truyền bệnh khác. Vi khuẩn lây nhanh qua đường hô hấp, đặc biệt là trong thời kỳ chưa được điều trị. Trung bình, một người bị bệnh lao có thể lây cho 10 - 15 người nên nếu không được điều trị sẽ khiến bệnh bùng thành dịch.
Vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis có thể lây nhiễm thông qua:
- Hít phải giọt bắn, dịch tiết hô hấp thông qua trò chuyện, ăn uống chung, sinh hoạt gần gũi…
- Vô tình chạm vào bề mặt bàn, chậu, bát đũa, khăn mặt… chứa dịch đờm, nước bọt khi ho, hắt hơi của người bệnh.
- Một số hiếm nhiễm lao thông qua thực phẩm (sữa) và thú nuôi nhiễm lao
Thực tế, rất nhiều người nhiễm lao nhưng không chuyển thành lao bệnh. Khi tiếp xúc với vi trùng lao, phổi sẽ xuất hiện phản ứng viêm cấp tính nhẹ dẫn đến đáp ứng miễn dịch. Phổi bị hoại tử, bã đậu hóa, sau đó chuyển sang giai đoạn xơ hóa và sẹo. Tuy nhiên, tổn thương tiên phát có thể lành hẳn và vi khuẩn lao chuyển sang dạng không hoạt động. Ở dạng này, vi trùng lao không có khả năng lây nhiễm và chỉ có khoảng 10% vi trùng lao tái hoạt động gây ra bệnh lao.
Khả năng chuyển thành lao hoạt động phụ thuộc vào số lượng vi khuẩn hít phải ít hay nhiều và sức đề kháng của cơ thể. Chính vì vậy, bệnh lao nói chung và lao phổi nói riêng thường gặp ở những đối tượng sau:
- Trẻ sơ sinh chưa được tiêm vaccine
- Phụ nữ mang thai, cho con bú
- Người có hệ miễn dịch suy giảm (nhiễm HIV, tiểu đường, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch kéo dài, ung thư, suy thận mạn…)
- Suy dinh dưỡng.
- Nhiễm chủng vi khuẩn lao kháng thuốc.
- Nghiện rượu, thuốc lá, ma túy.
- Chăm sóc, tiếp xúc thường xuyên với người bị lao phổi, lao thanh quản.
- Sinh sống trong điều kiện kém, ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh và đông đúc.
Tất cả trẻ sơ sinh sau khi sinh ra đều được tiêm phòng lao (BCG). Tuy nhiên, miễn dịch với lao thường không mạnh và không bền. Vì vậy, khi hệ miễn dịch suy giảm, vi khuẩn lao có thể tái hoạt động sau khi gây tổn thương tiên phát và chuyển sang giai đoạn lao hoạt động.
Trong 22 quốc gia có tỷ lệ nhiễm lao cao nhất thế giới, Việt Nam đứng thứ 12 và đứng thứ 3 sau Trung Quốc, Philippine ở khu vực Châu Á. Điều này cho thấy, tỷ lệ lao phổi ở nước ta là khá cao mặc dù công tác phòng chống, tuyên truyền không ngừng được đẩy mạnh.
Triệu chứng và chẩn đoán
Thời gian ủ bệnh lao có sự khác nhau ở từng người. Sau giai đoạn đầu, vi khuẩn lao sẽ tồn tại trong cơ thể ở dạng không hoạt động và không có khả năng lây nhiễm. Khi có điều kiện, vi trùng lao sẽ tái hoạt động, có thể là sau vài tháng hoặc thậm chí vài năm.
Vi trùng lao thường tấn công ở đỉnh phổi - nơi có phân áp oxy cao nhất. Sau đó, sẽ dần dần tấn công và gây viêm nhiễm tế bào phổi. Vi khuẩn lao sinh trưởng rất chậm, thời gian phân chia khoảng 18 - 20 giờ/ lần nên các triệu chứng không rõ ràng như viêm phổi do các chủng vi khuẩn khác.
Các triệu chứng của bệnh lao phổi:
- Ho khạc kéo dài trên 2 tuần, một số ít trường hợp có thể ho khạc ra máu
- Sốt nhẹ về chiều
- Ra mồ hôi trộm
- Đi kèm với mệt mỏi, ăn uống kém, sút cân
- Một số ít người có biểu hiện đau ngực
Mặc dù triệu chứng không quá điển hình nhưng đa phần 90% có những biểu hiện trên đều mắc bệnh lao phổi. Trong đó, đáng chú ý nhất là sốt nhẹ về chiều và ra mồ hôi trộm. Vì vậy, không nên chần chừ đến bệnh viện khi nhận thấy các biểu hiện bất thường.
Ban đâu, bác sĩ sẽ hỏi về các triệu chứng bệnh nhân gặp phải. Như đã nói, hơn 90% bệnh nhân có các triệu chứng như sốt về chiều, đổ mồ hôi trộm, ho khạc kéo dài, đau thắt ngực… đều nhiễm lao. Sau khi sàng lọc lâm sàng, bệnh nhân sẽ được thực hiện một số xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán xác định.
- Nhuộm Ziehl - Neelsen: Ngay khi nghi ngờ bị lao, bác sĩ sẽ lấy bệnh phẩm (đờm) để nhuộm Ziehl - Neelsen. Kết quả dương tính cho thấy sự hiện diện của vi trùng lao trong dịch tiết hô hấp. Ngoài đờm, một số trường hợp có thể phải lấy dịch màng phổi, nước tiểu, dịch dạ dày…
- Nuôi cấy vi khuẩn: Nhuộm Ziehl - Neelsen chỉ cho kết quả chính xác khi số lượng vi khuẩn trong đờm phải ≥104 AFB/ml. Hiện nay, các bác sĩ thường lựa chọn phương pháp nuôi cấy trong môi trường đặc (giàu dinh dưỡng). Phương pháp này có độ nhạy cảm cao nhưng do vi khuẩn lao phát triển chậm nên thường phải mất từ 4 - 6 tuần.
- Phản ứng Tuberculin (Mantoux): Kỹ thuật này được thực hiện bằng cách tiêm chất tuberculin vào da để đánh giá miễn dịch với lao. Trường hợp có nhiễm lao, vùng da tiêm sẽ xuất hiện cục đỏ cứng với đường kính từ 10mm trở lên sau 48 - 72 giờ. Tuy nhiên, những trường đã khỏi lao hoặc mới tiêm vaccine lao cũng có phản ứng tương tự.
- Kháng thể kháng lao (TB Rapid Test): TB Rapid Test giúp phát hiện kháng thể với vi khuẩn lao trong huyết thanh và các dịch khác cơ thể. Tuy nhiên, xét nghiệm này có hạn chế là độ đặc hiệu và độ nhạy không cao.
- Sinh học phân tử (PCR): Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày nay một số bệnh viện sử dụng sinh học phân tử để chẩn đoán bệnh lao. Kỹ thuật này giúp phát hiện nhanh vi trùng lao trong 5 - 6 giờ với độ nhạy và đặc hiệu cao.
- X-Quang phổi: Hình ảnh từ X-Quang nhận thấy hình ảnh tổn thương nhu mô phổi, cụ thể là thanh hang bị phá hủy hoặc thâm nhiễm.
Bệnh lao phổi cần được chẩn đoán với các bệnh lý khác ở phổi như giãn phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, ung thư phổi…
Biến chứng và tiên lượng
Bệnh lao nói chung và lao phổi nói riêng vẫn đang là vấn đề lớn đối với sức khỏe. Ngày nay, với vaccine chống lao và kháng sinh, tỷ lệ tử vong do lao đã giảm đi đáng kể, tiên lượng bệnh cũng có những thay đổi so với giai đoạn trước. Dù vậy, lao phổi vẫn cần được phát hiện sớm để tránh lây nhiễm cho cộng đồng và phòng ngừa biến chứng.
Bệnh lao phổi ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hô hấp. Vi trùng lao tấn công vào các phế nang, nhu mô phổi khiến cho hô hấp trở nên khó khăn. Từ phổi, vi khuẩn có thể đi vào hệ bạch huyết hoặc đường máu đến các tạng trong cơ thể như hạch bạch huyết, thận, gan, xương, thanh quản…
Nếu không được phát hiện sớm, người bệnh có thể lây nhiễm vi khuẩn lao cho cộng đồng. Một người bị lao có thể lây nhiễm cho 10 - 15 người khỏe mạnh. Vì vậy, việc che giấu bệnh, không tuân thủ điều trị sẽ khiến lao lây nhiễm trên diện rộng và bùng phát thành dịch.
Lao phổi không được điều trị kịp thời sẽ gây tràn dịch/ tràn khí màng phổi, xơ phổi, tắc đường phế quản, suy tuần hoàn và tử vong. Biến chứng thường gặp ở những đối tượng có hệ miễn dịch kém như nhiễm HIV, tiểu đường, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch…
Nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách, bệnh lao phổi có thể được kiểm soát bằng kháng sinh. Sau giai đoạn điều trị tấn công (2 tháng), bệnh nhân cần phải điều trị duy trì thêm 4 - 10 tháng để tránh tái phát. Hiện nay, tỷ lệ lao kháng thuốc đang gia tăng nên phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời đổi thuốc.
Điều trị
Sau khi chẩn đoán bệnh lao phổi, bệnh nhân cần được điều trị sớm để tránh lây nhiễm cho cộng đồng. Hiện nay, Bộ Y tế đã có phác đồ chính thức cho các trường hợp lao phổi. Những trường hợp mới được phát hiện sẽ được điều trị bằng phác đồ chuẩn, sau đó sẽ đánh giá mức độ đáp ứng để điều chỉnh thuốc nếu cần thiết.
Thuốc kháng lao
Lao nói chung và lao phổi nói riêng có thể chữa khỏi sau khi dùng kháng sinh. Tuy nhiên, bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ, tuyệt đối không tự ý ngưng điều trị khiến cho vi khuẩn lao đột biến, kháng thuốc. Vi trùng lao có tốc độ phát triển chậm nên cần phối hợp nhiều nhóm thuốc và phải dùng đủ liều lượng.
Thời gian thường phải sử dụng phối hợp 4 loại thuốc, sau đó chuyển sang dùng 2 - 3 loại có đáp ứng tốt. Trong suốt 2 tháng đầu tiên điều trị, bệnh nhân thường được yêu cầu điều trị nội trú để theo dõi và hạn chế lây nhiễm vi trùng cho cộng đồng.
Các loại kháng sinh được sử dụng trong điều trị bệnh lao:
- Rimifon
- Rifampicin
- Pyrazinamid
- Streptomycin
- Ethambutol
Vi khuẩn lao rất dễ bị đột biến và kháng thuốc, vì vậy bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định về loại thuốc, liều lượng và nên dùng thuốc cố định vào thời gian trong ngày. Nếu đã xuất hiện lao kháng thuốc, tỷ lệ tử vong lên đến 40 - 60%. Trường hợp này cần phối hợp nhiều loại thuốc và thời gian điều trị dài hơn.
Các phác đồ điều trị bệnh lao phổi được áp dụng hiện nay:
- Phác đồ A1: 2RHZE/4RHE
- Phác đồ A2: 2RHZE/4RH
- Phác đồ B1: 2RHZE (S)/10RHE
- Phác đồ B2: 2RHZE/10RH
Trường hợp kháng thuốc sẽ được điều trị bằng phác đồ khác tùy thuộc vào kháng loại kháng sinh nào. Lao kháng thuốc sẽ được điều trị kéo dài từ 18 - 20 tháng để tránh tái phát.
Nâng đỡ thể trạng
Tốc độ phục hồi của bệnh nhân lao phổi phụ thuộc vào thể trạng. Vì vậy trong thời gian điều trị, nên thực hiện các biện pháp nâng đỡ thể trạng:
- Xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý, cân bằng. Người nhà nên hỗ trợ người bệnh chuẩn bị thức ăn, nên dùng các món ăn mềm, lỏng và ít gia vị để dễ tiêu hóa.
- Người bệnh nên nghỉ ngơi hoàn toàn trong ít nhất 2 tháng đầu điều trị. Không gian nghỉ ngơi nên đáp ứng tiêu chí thoáng đãng, rộng rãi, nhiều ánh sáng để giảm lượng vi khuẩn trong cơ thể.
- Giữ vệ sinh cá nhân, đeo khẩu trang và giữ khoảng cách khi tiếp xúc với người khác.
- Không hút thuốc lá, uống rượu bia.
Phòng ngừa
Công tác phòng, chống lao vẫn đang được Bộ Y tế đẩy mạnh. Để góp sức đẩy lùi bệnh dịch này, cả người bệnh và người khỏe mạnh đều cần có ý thức phòng lao nói chung và lao phổi nói riêng.
Với người chưa nhiễm lao:
- Tiêm vaccine BCG ngay cho trẻ sơ sinh. Hiện tại, tất cả trẻ sinh ra đều được tiêm vaccine này theo Chương trình tiêm chủng mở rộng.
- Giữ khoảng cách và đeo khẩu trang khi đến những nơi đông người, đặc biệt là khi tiếp xúc với người bị lao phổi và lao thanh quản.
- Che miệng khi hắt hơi và ho.
- Rửa tay bằng xà phòng hoặc sát khuẩn bằng cồn trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và sau khi tiếp xúc với vật dụng công cộng.
- Không dùng chung vật dụng với người bệnh vì vi trùng lao có thể bám lên các bề mặt và tồn tại từ vài ngày cho đến hơn một tháng.
- Bệnh nhân nhiễm HIV đang ở những khu vực đông người (bệnh viện tâm thần, trại giam…) cần được điều trị dự phòng trong 6 tháng để tránh nhiễm vi khuẩn lao.
- Công tác kiểm dịch ở biên giới phải được đẩy mạnh để phát hiện sớm nguồn lây, tránh lây nhiễm bệnh cho cộng đồng.
- Nâng cao kiến thức về bệnh lao để có thể phát hiện và điều trị ngay khi có dấu hiệu lao phổi.
Đối với người nhiễm lao:
- Thông báo tình trạng sức khỏe với cơ quan y tế để được điều trị, tránh trường hợp lây nhiễm cho cộng đồng.
- Đeo khẩu trang, đặc biệt là phải che miệng khi ho, hắt hơi để tránh lây nhiễm vi trùng lao cho cộng đồng.
- Khạc đờm đúng nơi quy định.
- Sử dụng cồn sát khuẩn vật dụng, vệ sinh phòng thường xuyên để loại bỏ vi trùng lao.
- Mở cửa sổ nhằm tận dụng ánh nắng mặt trời để tiêu diệt vi khuẩn. Khi tiếp xúc với ánh nắng trực tiếp, vi khuẩn sẽ chết nhanh sau vài giờ, trong khi đó ở những không gian ẩm thấp và tối, vi khuẩn có thể tồn tại từ 20 - 35 ngày.
- Có ý thức bảo vệ sức khỏe cộng đồng, không cố ý lây nhiễm bệnh cho người khác.
Những câu hỏi quan trọng khi gặp bác sĩ
1. Các triệu chứng mà tôi gặp phải có phải là do lao phổi?
2 Tôi cần thực hiện những xét nghiệm nào để chẩn đoán bệnh lao phổi?
3. Vì sao tôi bị lao phổi dù đã tiêm vaccine?
4. Tình trạng của tôi của nghiêm trọng không? Có thể điều trị dứt điểm?
5. Tôi nên điều trị bằng phác đồ nào?
6. Điều trị lao có cần lưu ý gì không? Tôi cần dùng thuốc trong bao lâu?
7. Tôi có thể gặp phải tác dụng phụ gì khi dùng thuốc?
8. Tôi cần làm gì để kiểm soát các vấn đề sức khỏe đi kèm?
9. Sau khi điều trị, tôi có thể bị tái phát bệnh lao phổi?
Bệnh lao phổi là tình trạng nhiễm trùng nặng do vi trùng lao gây ra. Hiện nay, mặc dù đã có vaccine và kháng sinh nhưng tỷ lệ tử vong do lao vẫn đang ở mức cao. Để giảm thiểu ảnh hưởng của bệnh lao đối với sức khỏe của bản thân và cộng đồng, cần chủ động khai báo, tiếp nhận điều trị và tuân thủ chỉ định của bác sĩ.